Tuyên Quang: Định vị thương hiệu nông nghiệp

14:00 | 07/09/2025

|
Với quyết tâm kiến tạo động lực mới cho ngành nông nghiệp, tỉnh Tuyên Quang đã biến những điểm nghẽn thành cơ hội, tập trung vào sản xuất quy mô lớn, xây dựng chuỗi giá trị, lấy chất lượng làm nền tảng, công nghệ làm động lực. Qua đó, tạo đột phá đưa ngành nông nghiệp từ tiềm năng trở thành hiện thực, từ nội lực vươn ra hội nhập, định vị thương hiệu nông nghiệp Tuyên Quang trên bản đồ nông sản thế giới.

Với quyết tâm kiến tạo động lực mới cho ngành nông nghiệp, tỉnh Tuyên Quang đã biến những điểm nghẽn thành cơ hội, tập trung vào sản xuất quy mô lớn, xây dựng chuỗi giá trị, lấy chất lượng làm nền tảng, công nghệ làm động lực. Qua đó, tạo đột phá đưa ngành nông nghiệp từ tiềm năng trở thành hiện thực, từ nội lực vươn ra hội nhập, định vị thương hiệu nông nghiệp Tuyên Quang trên bản đồ nông sản thế giới.
Đột phá từ tư duy đổi mới

Nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang xác định một trong ba khâu đột phá là: “Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp hàng hóa, tập trung vào các sản phẩm chủ lực, sản phẩm đặc sản bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng, giá trị gia tăng cao gắn với xây dựng nông thôn mới”. Để thực hiện được khâu đột phá này, Nghị quyết nhấn mạnh một số giải pháp chủ yếu, trong đó: Tiếp tục cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh liên kết theo chuỗi giá trị, phát triển các hình thức hợp tác, liên kết trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa một cách bền vững. Khuyến khích liên kết tích tụ đất đai, tạo quỹ đất phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, từng bước xây dựng vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ.

Cùng với đó, cấp ủy tỉnh đã ban hành nghị quyết chuyên đề mang tính đột phá, trực tiếp giải quyết những vấn đề cốt lõi của địa phương. Điển hình như Nghị quyết về phát triển bền vững cây cam Sành, mang lại hiệu quả rõ nét. Toàn tỉnh đã có hơn 400 tổ chức, cá nhân được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để cải tạo, nâng cao chất lượng gần 700 ha cam Sành.

Tuyên Quang: Định vị thương hiệu nông nghiệp
Người Hợp tác xã Chế biến chè Phìn Hồ, xã Thông Nguyên là đơn vị sở hữu hai sản phẩm OCOP 5 sao.dân vùng cao Lai Châu đang từng bước thay đổi tư duy sản xuất, từ manh mún nhỏ lẻ sang hàng hóa. (Ảnh: Trọng Bảo)

Theo đánh giá của cơ quan chuyên môn: Những vườn cam được vay vốn đầu tư cho năng suất bình quân 115 tạ/ha, tăng 5 - 10,5 tạ/ha so với trước đây. Chất lượng cam Sành được nâng cao, trọng lượng đạt khoảng 4 quả/kg, tỷ lệ cam loại 1 chiếm 70 - 80% và độ ngọt trung bình đạt 10,15%. Anh Đặng Văn Phong, xã Hùng An phấn khởi: “Sau khi trừ chi phí, lợi nhuận lên đến 55 triệu đồng/ha, cao hơn 22 triệu đồng so với thời điểm trước khi vay vốn đầu tư nâng cao chất lượng cam Sành”.

Từ những quyết sách quan trọng của tỉnh, nhiều loại cây trồng ở Tuyên Quang như: Lúa đặc sản, chất lượng cao, chè Shan tuyết, cam Sành, bưởi Soi Hà, cây ăn quả ôn đới, thảo quả dưới tán rừng hay cây Tam giác mạch đã, đang hội tụ điều kiện thuận lợi để phát triển thành hàng hóa chất lượng cao, có thương hiệu trên thị trường. Với diện tích gieo cấy hơn 7.000 ha, năng suất bình quân 57 tạ/ha, sản lượng đạt hơn 39.600 tấn, vùng sản xuất lúa đặc sản gắn với du lịch ruộng bậc thang ở xã Hoàng Su Phì, Xín Mần, Hồng Thái… không chỉ cung cấp nguồn lương thực đặc sản mà còn gắn kết hài hòa với phát triển du lịch sinh thái, mang lại những giá trị kép về kinh tế và lan tỏa văn hóa bản địa.

Đặc biệt, Tuyên Quang còn sở hữu hơn 18.000 ha chè Shan tuyết cổ thụ, chiếm 64,3% diện tích chè toàn tỉnh. Sinh trưởng ở độ cao từ 700 mét đến hơn 2.000 mét so với mực nước biển, những cây chè Shan tuyết đã chắt chiu tinh hoa đất trời, tạo nên hương sắc đặc trưng, biến mỗi búp chè thành “vàng xanh” quý giá của núi rừng. Từ báu vật thiên nhiên, chè Shan tuyết đã khẳng định vị thế cây trồng chủ lực, đóng góp quan trọng vào kinh tế địa phương. Hiện, toàn tỉnh có gần 14.000 ha chè Shan tuyết cho thu hoạch, sản lượng khoảng 68.000 tấn mỗi năm, mang lại giá trị hơn 700 tỷ đồng.

Những năm qua, ngành trồng trọt luôn duy trì tăng trưởng ổn định 4 - 5%/năm. Toàn tỉnh hiện có hơn 220.000 ha gieo trồng cây nông nghiệp hằng năm, trên 25.000 ha cây ăn quả, 28.000 ha chè, 24.600 ha cây dược liệu. Đặc biệt, giá trị sản phẩm trồng trọt bình quân ước đạt 83,5 triệu đồng/ha; sản lượng lương thực đạt trên 78 vạn tấn, bình quân 390 kg/người. Đây là minh chứng cho bước chuyển từ lượng sang chất, từ tự cung sang xây dựng thương hiệu, góp phần làm nên nền nông nghiệp không chỉ bảo đảm an ninh lương thực mà còn tạo dựng giá trị gia tăng và vị thế bền vững trên thị trường.

“Giấy thông hành” cho nông sản

Toàn tỉnh hiện có 9 cơ sở đang áp dụng mô hình nhà lưới với tổng diện tích 1,66 ha, tập trung vào các loại cây trồng giá trị cao như dưa lưới, bí đỏ, rau thủy canh... Việc ứng dụng công nghệ đã và đang giải quyết bài toán kiểm soát vi khí hậu, ổn định năng suất, chất lượng, đồng thời đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.

Hợp tác xã Nông, lâm nghiệp Kim Bình là đơn vị tiên phong ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Với diện tích 0,22 ha, dưa lưới được trồng trong nhà lưới, áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt và kiểm soát vi khí hậu, đã cho năng suất 6,6 - 8,8 tấn, mang lại nguồn thu hàng trăm triệu đồng mỗi vụ, cao gấp 2 - 3 lần so với phương pháp truyền thống. Giám đốc Hợp tác xã Cao Văn Phú khẳng định: “Ứng dụng công nghệ không chỉ giúp kiểm soát chất lượng, gia tăng hiệu quả sản xuất, mà còn tạo nền tảng để nông sản Kim Bình khẳng định thương hiệu, chinh phục thị trường rộng lớn hơn”.

Tuyên Quang: Định vị thương hiệu nông nghiệp
Hợp tác xã Chế biến chè Phìn Hồ, xã Thông Nguyên là đơn vị sở hữu hai sản phẩm OCOP 5 sao.

Nếu như trước năm 2016, tỷ lệ ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh mới đạt khoảng 40% thì nay, con số này đạt trên 80%. Qua đó, không chỉ nâng cao chất lượng mà còn chuẩn hóa quy trình sản xuất, tạo “giấy thông hành” cho nông sản Tuyên Quang hội nhập quốc tế. Đến nay, tỉnh có gần 5.700 ha cây trồng như cam, chè, thanh long đỏ, lúa, rau… được chứng nhận sản xuất theo các tiêu chuẩn an toàn và bền vững.

Trong đó, hơn 3.200 ha đạt tiêu chuẩn VietGAP, 1.561 ha đạt tiêu chuẩn hữu cơ, gần 915 ha đạt tiêu chuẩn Rainforest Alliance, 8 ha đạt chuẩn GlobalGAP - tiêu chuẩn khắt khe nhất trong nông nghiệp an toàn. Ngoài ra, tỉnh còn phát triển 50 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn, xây dựng 7 cơ sở chế biến đạt các chứng nhận quốc tế như ISO 22000:2018, HACCP, Halal và bảo hộ 10 sản phẩm chỉ dẫn địa lý để bảo vệ uy tín, khẳng định thương hiệu cho nông sản.

Không dừng ở kết quả trên, toàn tỉnh còn sở hữu 457 sản phẩm OCOP; trong đó, 2 sản phẩm đạt chuẩn 5 sao - biểu tượng của chất lượng hàng đầu, 1 sản phẩm tiềm năng 5 sao và hàng trăm sản phẩm 3 - 4 sao. Các sản phẩm này đều được chứng thực bằng những tiêu chuẩn nghiêm ngặt để tạo ra giá trị kinh tế bền vững và khẳng định vị thế trên bản đồ nông sản Việt.

Ấn tượng hơn, tỉnh Tuyên Quang còn có 7 sản phẩm nông sản xuất khẩu sang Vương quốc Anh. Riêng sản phẩm chè chinh phục được các thị trường khó tính như Nga, Mỹ, Pakistan và nhiều nước châu Âu. Sản phẩm củ cải, gừng Trâu xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Nhật Bản, góp phần gia tăng giá trị, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân.

Riêng tại xã Xuân Vân, vùng bưởi Soi Hà với hơn 60 ha, sản lượng trên 900 tấn mỗi năm đã tạo nên bước tiến lịch sử. Năm 2024, 10 tấn bưởi đầu tiên xuất khẩu sang Vương quốc Anh, mở ra cánh cửa rộng lớn cho nông sản Tuyên Quang vươn ra thế giới. Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh, Giang Đức Hiệp cho biết: “Chi cục đang phối hợp với cơ quan liên quan hướng dẫn nhà vườn chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, đảm bảo các điều kiện xuất khẩu bưởi Soi Hà vào thị trường EU”.

Gỡ “nút thắt”, kiến tạo động lực mới

Theo đánh giá của ngành chuyên môn, sản xuất nông nghiệp vẫn phụ thuộc nặng nề vào thời tiết, năng suất chưa ổn định. Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, khoa học, công nghệ tuy có chuyển biến nhưng chưa đồng đều; lợi thế đất đai, giống cây trồng chưa được khai thác tối đa. Nhiều diện tích cam, chè đã già cỗi, trong khi quy trình cải tạo, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh chưa thống nhất nên chất lượng thiếu đồng đều.

Khâu chế biến sâu đang là “nút thắt” lớn khi phần lớn nông sản bán thô, giá trị gia tăng thấp. Diện tích sản xuất theo các tiêu chuẩn an toàn và bền vững mới đạt hơn 5.700 ha, trong đó chuẩn GlobalGAP chỉ chiếm khiêm tốn 0,14%. Mặt khác, sản xuất còn manh mún, liên kết giữa nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp lỏng lẻo, khiến chuỗi giá trị chưa bền chặt, rủi ro thị trường thường xuyên xảy ra.

Đồng chí Nguyễn Xuân Hùng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Tuyên Quang cho biết: Với mục tiêu phát triển ngành trồng trọt theo hướng hiện đại, bền vững, Sở đã tham mưu cấp ủy, chính quyền tỉnh nhiều giải pháp chiến lược. Trước hết là quy hoạch lại vùng sản xuất theo lợi thế tự nhiên và nhu cầu thị trường, xây dựng bản đồ số về thổ nhưỡng, khí hậu, giống cây, dịch bệnh, phấn đấu có từ 5 - 7 trung tâm sản xuất hiện đại vào năm 2030.

Tiếp đó, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số, tích hợp dữ liệu để dự báo, điều hành sản xuất; áp dụng nhật ký điện tử, phần mềm quản lý hợp tác xã hay ứng dụng đặt giống, vật tư, giúp nông dân tiếp cận công nghệ thuận tiện. Mặt khác, tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn kết bền vững “4 nhà”. Trong đó, nhà nước kiến tạo chính sách, nhà khoa học cung cấp tri thức và công nghệ, doanh nghiệp dẫn dắt thị trường, nhà nông là chủ thể sản xuất, tạo ra sản phẩm. Trên cơ sở này, đẩy mạnh sản xuất theo đơn đặt hàng, bao tiêu sản phẩm, gắn mã vùng trồng với thương hiệu, chuẩn VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ… nhằm giảm rủi ro, nâng cao tính cạnh tranh và mở rộng xuất khẩu.

Từ tầm nhìn chiến lược, nông nghiệp Tuyên Quang không chỉ đứng vững trên sân nhà mà còn tự tin vươn ra thế giới, khẳng định vị thế bằng thương hiệu và giá trị gia tăng. Cùng với đó, chiến lược sản xuất lớn, quản trị chuỗi, ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số đang được triển khai đồng bộ, chính là “chìa khóa vàng” để mở ra chương mới hiện đại bền vững cho nền nông nghiệp Tuyên Quang.

Nguồn: Định vị thương hiệu nông nghiệp

Thu Phương

baotuyenquang.com.vn