Bến Tre: Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp bền vững

05:10 | 26/09/2023

|
Là địa phương có thế mạnh về lĩnh vực nông nghiệp (NN), tỉnh đã tập trung đẩy mạnh phát triển sản xuất nhằm tạo ra giá trị tăng thêm cho ngành NN trong thời gian tới, nhất là sản xuất NN hữu cơ, NN tuần hoàn, đồng thời phát triển NN bền vững theo hướng chuyển đổi số toàn diện. Phóng viên đã có cuộc trao đổi với Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đoàn Văn Đảnh xung quanh nội dung này.
Bến Tre: Tranh tài thi làm lồng đèn Trung thuBến Tre: Tranh tài thi làm lồng đèn Trung thu
Bến Tre: Sạt lở diễn biến phức tạpBến Tre: Sạt lở diễn biến phức tạp

Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững. Ảnh: T. Bạch

Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững. Ảnh: T. Bạch

* Phóng viên: Giai đoạn 2022 - 2025 và định hướng đến năm 2030, tỉnh đặt mục tiêu phấn đấu trở thành tỉnh có trình độ sản xuất hữu cơ (SXHC) trong khu vực và cả nước. Xin ông cho biết cụ thể về nội dung này?

- Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đoàn Văn Đảnh: Tỉnh có diện tích canh tác hữu cơ khá lớn với hơn 14.000ha, chủ yếu là trồng dừa, lúa, rau màu… Các sản phẩm chế biến từ dừa được xuất khẩu sang các thị trường khó tính như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, châu Âu… Hiện chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ dừa hữu cơ của tỉnh đã phát triển với diện tích hơn 15.337ha; trong đó, diện tích đạt chứng nhận là hơn 13.743ha (chiếm 17,8% trên tổng diện tích dừa toàn tỉnh là 77.232ha); diện tích đang chuyển đổi là hơn 1.593ha. Ngoài ra, còn có hơn 388ha bưởi đạt chứng nhận VietGAP. Hiện mô hình sản xuất bưởi da xanh theo tiêu chuẩn hữu cơ PGS đã được triển khai với quy mô 10ha. Sản phẩm bưởi đạt chất lượng an toàn được các doanh nghiệp (DN) trong, ngoài tỉnh đặc biệt quan tâm và liên kết tiêu thụ.

Vừa qua, UBND tỉnh đã ban hành Đề án phát triển NN hữu cơ giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030. Theo đó, địa phương đặt mục tiêu phát triển NN hữu cơ có giá trị tăng cao, bền vững, thân thiện với môi trường gắn với kinh tế NN tuần hoàn phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đưa tỉnh trở thành tỉnh có trình độ SXHC trong khu vực và cả nước.

Theo đó, tỉnh phấn đấu đến năm 2025, diện tích nhóm đất NN SXHC đạt khoảng từ 11 - 13% trên tổng diện tích nhóm đất NN. Diện tích nuôi trồng thủy sản hữu cơ đạt khoảng từ 1-2% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản. Tỉnh cũng phấn đấu đưa diện tích dừa SXHC giai đoạn 2022 - 2025 là 20.000ha, đến năm 2030 đạt 30.000ha. Diện tích bưởi da xanh sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ PGS giai đoạn 2022 - 2025 đạt 50ha, đến năm 2030 đạt 200ha…

Để đạt mục tiêu đề ra, tỉnh ưu tiên các vùng có điều kiện đất đai, khí hậu thuận lợi cho từng đối tượng cây trồng, vật nuôi để sản xuất an toàn, SXHC; ưu tiên chọn lựa giống cây trồng, vật nuôi thích ứng tốt với điều kiện thổ nhưỡng, chống chịu dịch bệnh và có thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định.

Bên cạnh đó, tỉnh cũng sẽ hình thành vùng SXHC tập trung với các loại sản phẩm chủ lực, các sản phẩm đặc trưng có tiềm năng gắn với xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, đảm bảo truy xuất nguồn gốc. Đồng thời, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển vùng SXHC, cũng như kêu gọi đầu tư vào sản xuất.

* Thực trạng và giải pháp sản xuất kinh tế tuần hoàn (KTTH) trong NN, thưa ông?

- Tỉnh có nền sản xuất NN rất phong phú và đa dạng với các loại hình sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản được phân bố trên 3 vùng sinh thái ngọt, mặn, lợ. Tuy vậy, phần lớn nông dân sản xuất với quy mô nhỏ, đa số nông dân còn thiếu vốn đầu tư cho phát triển sản xuất. Việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật chưa đồng bộ nên chất lượng sản phẩm hàng hóa chưa cao.

Trồng dưa hấu ở xã Bảo Thuận, huyện Ba Tri. Ảnh: Thanh Bạch

Trồng dưa hấu ở xã Bảo Thuận, huyện Ba Tri. Ảnh: Thanh Bạch

Hơn nữa, việc phát triển KTTH trong NN đang gặp một số vấn đề như: Nhận thức của cơ quan, đơn vị, DN và nông dân về NN tuần hoàn chưa đầy đủ; chưa tạo ra động lực để phát triển KTTH trong NN, sản xuất NN vẫn chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, sử dụng chất kích thích tăng trưởng, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón vô cơ.

Trước thực trạng đó, thời gian tới, tỉnh sẽ từng bước nâng cao chất lượng và giá trị của sản phẩm NN, góp phần giải quyết những thách thức toàn cầu do ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời tạo ra cơ hội việc làm và đầu tư mới, giảm chi phí sản xuất, từ đó giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa DN, người tiêu dùng và xã hội.

Đẩy mạnh tuyên truyền, triển khai và nhân rộng các mô hình sản xuất, sử dụng phế phẩm NN vào sản xuất, khuyến khích mở rộng các mô hình sản xuất NN hữu cơ, NN sạch, NN công nghệ cao. Nâng cao năng lực tái chế, tái sử dụng phụ phẩm, phế phẩm NN.

Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích DN đầu tư và phát triển công nghiệp chế biến nông sản. Kêu gọi DN đầu tư vào NN theo hướng hình thành các chuỗi giá trị nông sản. Ứng dụng công nghệ vi sinh trong xử lý tất cả phế phẩm, phụ phẩm từ hoạt động sơ chế dừa kết hợp với nguồn chất thải trong chăn nuôi của địa phương làm nguồn vật tư đầu vào cho canh tác dừa, cây ăn trái… vừa giảm chi phí đầu tư vừa góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Đồng thời, từng bước chuyển dịch các cơ sở sản xuất NN đơn lẻ sang cơ sở sản xuất NN tuần hoàn phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Tạo liên kết giữa các cơ sở chế biến để tận thu các phụ phẩm, phế phẩm nhằm tạo nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định cho sản xuất NN tuần hoàn và giải quyết được ô nhiễm môi trường.

* Giải pháp phát triển NN bền vững theo hướng chuyển đổi số toàn diện?

- Hiện nay, trong lĩnh vực thủy sản, tỉnh đã ứng dụng xử lý số liệu thống kê sản lượng thủy sản khai thác, sử dụng hệ thống giám sát hành trình tàu cá thực hiện giám sát tàu cá hoạt động khai thác thủy sản trên biển, chống đánh bắt bất hợp pháp, ứng dụng kiểm soát tàu cá cập/rời cảng, giám sát sản lượng thủy sản khai thác qua cảng; đồng thời, đã và đang đầu tư lắp đặt nhiều trạm quan trắc để tiếp cận theo dõi, chủ động trong công tác phòng ngừa, dự báo trong sản xuất.

Đối với lĩnh vực lâm nghiệp, tỉnh sử dụng phần mềm giám sát, đánh giá và thống kê ngành lâm nghiệp; phần mềm chương trình quản lý dữ liệu rừng ven biển và thử nghiệm phần mềm quản lý cơ sở nuôi động vật hoang dã. Còn trong lĩnh vực trồng trọt và bảo vệ thực vật, địa phương ứng dụng quản lý cơ sở dữ liệu về thiết lập và giám sát mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói; quản lý tình hình sinh vật gây hại, cũng như công tác thanh tra, kiểm tra thuốc bảo vệ thực vật...

Vừa qua, lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp tổ chức hội nghị nhằm đưa ra nhiều giải pháp thực hiện để giúp phát triển NN của tỉnh nhà bền vững theo hướng chuyển đổi số toàn diện, xây dựng và khai thác dữ liệu số ngành NN, ứng dụng các phần mềm trong lĩnh vực NN, những định hướng và các giải pháp trong việc ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ lĩnh vực NN của tỉnh. Từ những ý kiến, kiến nghị tại hội nghị, sở sẽ phối hợp với các ngành, đơn vị nghiên cứu và đưa ra các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số, lên kế hoạch triển khai các phương án khả thi của ngành NN tỉnh nhà.

* Xin cảm ơn Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn!

Nguồn: Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp bền vững

Thanh Bạch

baodongkhoi.vn